Phong cách Pop – Art trong kiến trúc đương đại
Những
thiết kế kiến trúc – nội thất theo phong cách Pop Art đa phần mang nét khỏe khoắn,
tươi vui và hàm chứa cả sự nổi loạn, phá cách nên thường được những người trẻ
ưa thích. Nhưng, cũng giống như rất nhiều xu hướng và phong cách kiến trúc khác
du nhập ồ ạt vào nước ta thời kỳ mở cửa, thường phong cách này chỉ được để ý đến
phần ngọn, đến phần biểu hiện ra bên ngoài của hình thức mà quên mất bản chất cốt
lõi bên trong của nó. Hệ quả là những công trình xây dựng phần nhiều chỉ mang
dáng dấp, cóp nhặt, gán ghép về mặt đường nét của các xu hướng kiến trúc khác
nhau. Trong bài viết này, chúng tôi chủ yếu trình bày về triết lý chính của
phong cách Pop Art trong kiến trúc và những cơ sở nguồn gốc lý luận của nó – Với
mong muốn đóng góp một phần nền tảng cho phong cách thực hành kiến trúc thú vị
này.
Pop Art là gì?
Trong
nghệ thuật, Pop Art là viết tắt của Popular Art- Nghệ thuật đại chúng. Xuất
hiện từ những năm 1950, với chất liệu và ý tưởng lấy từ mọi hoạt động trong cuộc
sống và xã hội thường ngày, xu hướng Pop Art luôn đóng vai trò là cầu nối giữa
nghệ thuật thuần túy với cuộc sống. Khởi đầu với sự xuất hiện trong triển lãm về
điêu khắc của Edward Paolozzi ở Anh năm 1947, các tác phẩm mang tính “đánh
thức” dư luận của họa sỹ người Czech sinh sống ở Mỹ – Andy Warhol, như bức
tranh “Hộp súp nhãn hiệu Campbells” năm 1962; hay các bức tranh lấy cảm
hứng từ Marilyn Monroe và các nghệ sĩ đương thời khác. Theo đà phát triển của
xã hội, tiếng nói của Pop Art với tinh thần nghệ thuật hướng đến quần chúng vẫn
còn rất mạnh mẽ trong xã hội.
Trong
lĩnh vực kiến trúc, các KTS xu hướng Hậu hiện đại đã sớm ảnh hưởng tư tưởng
phóng khoáng của Pop Art và đưa chúng vào các thiết kế của mình, tạo nên một
khuynh hướng thực hành kiến trúc. Phong cách này sớm nổi bật với các thiết kế của
KTS Venturi, Hans Hollein hay Zaha Hadid…
Có
thể nói, Robert Venturi (1925) là KTS khởi đầu cho sự phát triển kiến trúc Hậu
hiện đại khi ông lên tiếng phê phán sự cứng nhắc của kiến trúc Hiện đại với việc
nêu lên “Tính nhập nhằng trong kiến trúc”. Thời điểm đó, trong hoạt động
nghệ thuật, Chủ nghĩa biểu hiện quan tâm đến sự nhập nhằng trong nhận thức, còn
Pop Art lại quan tâm đến sự nhập nhằng nước đôi, và do đó các họa sỹ Pop Art sử
dụng sự mập mờ để tạo cho các hình thức – nội dung ngược đời. Những cái mà trào
lưu hội họa này mang đến cho Venturi chính là tính hài hước, châm biếm trong kiến
trúc, sự phá hoại tỷ lệ hay những cái vượt tỷ lệ trong quy mô một ngôi nhà nhỏ.
Từ những lý luận đó, ông đã sử dụng các thủ pháp của xu hướng Pop Art vào các
thiết kế của mình qua tính khôi hài của công trình Electric House, cột Mickey
Mouse IONIC trong Bảo tàng Nghệ thuật Pop ở NewYork, hay những chi tiết phóng đại
sai tỷ lệ như ở công trình Vanna Venturi house và Peason house. Những công
trình này đã gây ảnh hưởng rất lớn đến các KTS Hậu hiện đại. Họ đã làm những đầu
cột Ionic và Corinthien bằng kim loại và các lá acan bay bổng không đối xứng,
hay phóng đại cái khóa vòm trên nhiều công trình nổi tiếng như công trình Tòa
thị chính ở Portland của Micheal Grave …
Ngày
nay, phong cách Pop Art trong kiến trúc tuy không nổi bật nhưng vẫn có sức sống
bền bỉ và phát triển đều đặn cả trong nội thất và ngoại thất… tạo nên một số điểm
nhấn lạ mắt, ý tưởng trẻ trung trong đô thị.
Như
vậy, Pop Art trong nghệ thuật nói chung và trong kiến trúc nói riêng có thể hiểu
khái quát là nghệ thuật sử dụng những chi tiết, hình ảnh quen thuộc nhất, hay tầm
thường nhất, sắp đặt tạo thành một bố cục. Các chi tiết trong bố cục đó có thể
rất phức tạp hay mâu thuẫn với nhau, nhưng chính điều đó lại tạo nên một sự hài
hòa thống nhất trong tổng thể. Hơn hết, nó đi thẳng đến ấn tượng và cảm nhận của
người xem mà không gặp trở ngại nào đáng kể và luôn dễ dàng thay đổi theo kịp
nhưng biến chuyển của thời đại.
Đối
với thực hành thiết kế theo phong cách Pop Art có thể kể đến những đặc điểm cơ
bản sau:
Màu
sắc: Sử dụng
các gam màu nổi, tạo sự năng động, ưa thích thủ pháp tương phản (có thể kết hợp
đèn trang trí nhiều màu sắc).
Trần
và sàn: Sàn
có thể thiết kế đơn giản hoặc kết hợp với thảm sặc sỡ nhiều màu. Trần ưa thích
các vật liệu có độ phản xạ cao để phản chiếu nhiều bóng và sắc độ cho căn
phòng.
Vật
dụng: Chỉ sử
dụng vật dụng thật cần thiết, được lựa chọn theo tiêu chí màu sắc tươi sáng, nhỏ
gọn và độc đáo.
Phụ
kiện: Phụ kiện
độc nhất và duy nhất với gam màu tương phản mạnh. Cũng có thể là những vật dụng
quen thuộc bình thường nhưng được biến tấu về kích thước và chi tiết.
Triết lý chính và
nguồn gốc lý luận của Pop Art
1.
Sự xuất hiện của xu hướng nghệ thuật Pop Art
Từ
thập niên 50-60 của thế kỷ XX, trong xã hội công nghiệp phương Tây, đại bộ phận
dân chúng cho rằng việc tham quan các bảo tàng là hết sức tẻ nhạt. Suy nghĩ này
xuất phát từ tâm lý không hiểu được các tác phẩm một cách trọn vẹn, lo sợ không
thể cảm nhận vẻ đẹp của một tác phẩm “đỉnh cao nghệ thuật”– Vì việc hiểu
các tác phẩm hàn lâm đòi hỏi nền tảng kiến thức lớn và không thể thưởng lãm lướt
qua. Từ đó, nghệ thuật chính thống trở nên dần xa cách với đại bộ phận quần
chúng. Để khắc phục, các nghệ sĩ đã đề xướng lên một xu hướng nghệ thuật gần
gũi, như một cầu nối cho cuộc sống người bình thường bước vào thế giới nghệ thuật.
Với các tác phẩm Pop Art, người xem luôn dễ dàng nhận ra các tín hiệu của cuộc
sống thường ngày, dễ dàng đánh giá và cảm nhận thích hay không thích mà không
phải e dè hay lo sợ.
Triết
lý chủ đạo của xu hướng nghệ thuật Pop Art là mong muốn tạo ra một hình thức
nghệ thuật có ý nghĩa ngay lập tức. Để thể hiện triết lý đó, với các họa sỹ Pop
Art thì mọi thứ bình thường nhất trong cuộc sống đều có thể trở thành nghệ thuật.
Họ lấy ý tưởng và chi tiết từ khắp mọi nơi như phim ảnh, quảng cáo, tạp chí,
trò chơi dân gian, áp phích,… để đưa vào các tác phẩm của mình. Những hình ảnh
hết sức quen thuộc với cuộc sống hiện đại lúc bấy giờ như chai Coca Cola, vỏ đồ
hộp Campbells, diễn viên nổi tiếng Marylin Monroe, … đều được sử dụng. Màu sắc
trong tranh của họ thường tạo nên cảm giác tươi mới, trẻ trung, giàu sức sống với
việc sử dụng các màu nổi (thường là màu bậc 1) theo thủ pháp tương phản tạo ấn
tượng với người xem. Các họa sỹ Pop Art đã sử dụng những chất liệu và kỹ thuật
tân tiến nhất của thời đại để thể hiện các tác phẩm của mình, từ sơn Acrylic, cắt
dán, các vật liệu lạ lùng đến kỹ thuật in ấn hàng loạt trong đô thị. Chính nhờ
những yếu tố đó mà các tác phẩm của xu hướng Pop Art gần gũi với đông đảo quần
chúng hơn và dễ dàng đưa những thông điệp của nó vào cuộc sống.
Một
triết lý khác của xu hướng nghệ thuật Pop Art là: Ý tưởng và quá trình tạo nên
tác phẩm quan trọng hơn là bản thân tác phẩm nghệ thuật. Điều này cũng là một
nét “nổi loạn” của Pop Art so với nghệ thuật truyền thống, chỉ thừa
nhận giá trị và ngữ nghĩa của một tác phẩm hoàn chỉnh. Triết lý này gần với tư
tưởng của phong trào văn hóa Dada đầu thế kỷ XX.
2.
Phong trào văn hóa Dada
Dada
hoặc Dadaism là một phong trào văn hóa bắt đầu từ Zürich, Thụy Sĩ, trong thời
kì thế chiến I và đạt đỉnh trong giai đoạn 1916-1922. Phong trào này chủ yếu
liên quan đến nghệ thuật thị giác, văn học, thơ ca, tuyên ngôn nghệ thuật, lí
thuyết nghệ thuật, sân khấu, thiết kế đồ họa… chống chiến tranh thông qua việc
loại bỏ các tiêu chuẩn hiện hành trong nghệ thuật bằng các công trình văn hoá
chống nghệ thuật. Mục đích của nó là để chế giễu những thứ mà những thành viên
của phong trào này xem là vô nghĩa về thế giới hiện đại. Những họa sĩ tham gia
trong trường phái Dada phải kể đến như: Apollinaire, Marinetti, Picasso,
Modigliani, Kandinsky- “Các nghệ sĩ nhạy cảm với sự phát triển những cách
thể hiện mới”.
Tuy
nhiên, phong trào Dada sớm đi vào tiêu cực và cực đoan khi phá hoại các giá trị
cổ điển, bôi nhọ các giá trị truyền thống và đổ lỗi tất cả là do chiến tranh Thế
giới thứ I. Điều đó cũng ảnh hưởng ít nhiều đến một số nghệ sĩ của xu hướng Pop
Art qua một vài cương lĩnh chống nghệ thuật (anti-art) hay phản thẩm mỹ (anti –
aesthetic). Nhưng đó chỉ là một bộ phận rất nhỏ trong xu hướng này, còn lại đại
đa số các nghệ sĩ theo xu hướng Pop Art mặc dù thể hiện tính “nổi loạn” cao.
3.
Chủ nghĩa thực dụng
Nói
đến triết lý chủ đạo của Pop Art, hay chủ nghĩa Dada, chúng ta thấy nổi bật lên
là tính thực dụng trong các tác phẩm. Đặc điểm này có thể thấy rất rõ là chịu ảnh
hưởng từ những tư tưởng của học thuyết “Chủ nghĩa thực dụng”do hai triết gia
Mỹ, Charles Peirce và William James, đồng sáng lập vào cuối thế kỷ 19. Về sau,
học thuyết này được John Dewey phát triển thành thuyết công cụ
(instrumentalism).
Với
bối cảnh xã hội không đánh giá đúng bản chất vị thế của văn hóa, những người
theo chủ nghĩa thực dụng cho rằng chân lý của đức tin không nằm trong sự tương
hợp của họ với thực tại mà nằm ở sự hữu ích và hiệu quả. Bởi lẽ, sự hữu ích của
bất kỳ đức tin nào, trong bất kỳ thời điểm nào, có thể phụ thuộc vào hoàn cảnh.
Peirce và James đã khái niệm hóa chân lý cuối cùng là cái chỉ được thiết lập
trong tương lai, tức cái được đúc kết bởi tất cả các quan điểm.
Ảnh
hưởng từ những tư tưởng của học thuyết này, các tác phẩm của xu hướng Pop Art
luôn bắt đầu từ những hình ảnh mang tính đại chúng và thực dụng cao trong xã hội.
Chính sự hiện diện của những yếu tố thực sự hữu ích và là biểu tượng của xã hội
đương thời làm cho nghệ thuật xích lại gần công chúng hơn, dễ dàng truyển tải
thông điệp của nghệ sỹ.
4.
Những quan điểm triết học của Ludwig Wittgenstein
Bên
cạnh chủ nghĩa thực dụng, những quan điểm triết học của Ludwig Wittgenstein
(1889-1951) thể hiện trong tác phẩm “Khảo sát về triết học”(Philosophical
Investigations) cũng đóng vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nên triết
lý của xu hướng Pop Art. Ông được xem là một trong những nhà triết học quan trọng
nhất của thế kỷ 20, có nhiều đóng góp quan trọng trong logic, triết học về
toán, triết học tâm thức và triết học ngôn ngữ. Hai quyển sách “Cương lĩnh
lý luận và phê bình triết học” (Tractatus Logico-Philosophicus) và “Khảo
sát về triết học” (Philosophical Investigations) đều tập trung vào vai trò của
ngôn ngữ trong tư duy của con người, và quan tâm hàng đầu đến ranh giới giữa
chuyện dùng ngôn ngữ có đúng chỗ hay không, hay như có người từng diễn đạt – là
vẽ đường phân chia ranh giới ở nơi bắt đầu của có nghĩa và vô nghĩa.
Trong
khi những tư tưởng trong quyển “Cương lĩnh lý luận và phê bình triết học” được
trường phái Minimalism ở Mỹ, trong thập niên 60 sử dụng như là tư tưởng chủ đạo,
thì quyển “Khảo sát về triết học” của ông lại gây ảnh hưởng mạnh đến
xu hướng Pop Art. Bởi lẽ, tác phẩm này đã khuyến khích sự phát triển của “Triết
học ngôn ngữ bình dân”, được phát triển bởi Gilbert Ryle, J. L. Austin, và một
số người khác. Trong đó, sự rõ ràng của ý nghĩa được hiểu là có tầm quan trọng
cao nhất. Những tư tưởng này được thể hiện rất rõ trong tác phẩm của các nghệ sỹ
Pop Art. Trong các phát biểu của Andy Warhol, ông luôn khẳng định rằng: Tranh của
ông chỉ là tất cả những gì nằm trên mặt vải – Đó cũng chính là sự “nổi loạn” của
Pop Art khi đi ngược lại những bố cục truyền thống, hàm chứa những ý nghĩa sâu
xa và xa rời đại bộ phận quần chúng của nghệ thuật hàn lâm.
Những
triết lý của xu hướng nghệ thuật Pop Art khi đi vào thực hành kiến trúc đã tạo
nên các công trình với những nét sắc thái rất riêng và những thông điệp hết sức
thời đại. Những công trình theo phong cách Pop Art cũng mang hơi thở của Chiết
trung. Tuy nhiên, đó không phải là sự chiết trung nghiêm ngặt của Tân cổ điển,
cũng không phải là sự rườm rà của Artdeco, cũng không phải là gạn lọc những
hình thức kỷ hà như Duy lý Italy ,… mà đơn giản, có thể hiểu nó như một sự Chiết
trung bình dân. Cũng là đầu cột Ionique, nhưng trong kiến trúc Pop Art nó lại
trở thành đầu cột Mickey (KTS.Venturi), cũng là thức cột người Cariathide,
nhưng trong thiết kế Walt Disnet Concert Hall của Hans Hollein thì lại thành tượng
Oscar đứng, hay phóng đại cái khóa vòm trên nhiều công trình nổi tiếng như công
trình Tòa thị chính ở Portland của Micheal Grave… Tất cả những yếu tố đó làm
cho kiến trúc Pop Art đóng vai trò như những tiếng nói trào phúng, thức tỉnh dư
luận và từ đó kéo những triết lý thiết kế lại gần hơn với đời sống con người
thay vì quá kì công như kiến trúc cổ điển, hay quá xơ cứng như kiến trúc hiện đại.
Cũng chính vì đóng vai trò như tiếng nói trào phúng, hay điểm nhấn cho việc thể
hiện cá tính, quan điểm của người thiết kế mà xu hướng Pop Art vẫn luôn được ưa
chuộng từ khi nó xuất hiện đến nay.
Nghệ
thuật Pop Art là nghệ thuật của đời thường, những bức vẽ thì đơn giản, dễ đọc,
dễ hiểu. Những nhân vật và đồ vật trong tranh thì được thể hiện bằng những màu
sắc sống động và đưa đến một sự tiếp cận mới đối với thực tiễn. Các tác phẩm thực
nghiệm đầu tiên của Pop-Art được các nhà phê bình đánh giá cao và coi trọng vì
nó có rất nhiều nền tảng văn hóa, từ quan điểm tư tưởng sáng tác và kỹ năng sử
dụng vật liệu, bởi thế các nhà nghệ sĩ Pop Art đã gây được những ảnh hưởng rất
sâu xa.
Hi
vọng với bài viết trên sẽ bổ sung những thông tin hữu ích cho bạn. Thiên Phố
luôn tự hào là một trong những đơn vị thiết kế, thi công và xây dựng nhà ở (nội
ngoại thất) trọn gói uy tín tại Tp.HCM, luôn đồng hành và giúp khách hàng xây dựng
tổ ấm trong mơ thành hiện thực, mang lại cho bạn những giá trị đích thực của cuộc
sống với không gian sống đẹp cùng những món đồ nội thất thông minh, tiện nghi
và đẳng cấp. Hãy liên hệ ngay với chúng tôi theo đường dây nóng (028) 54173837
để được tư vấn và hỗ trợ về các giải pháp thiết kế xây dựng nhà ở “hot” nhất hiện
nay các bạn nhé.
Nhận xét
Đăng nhận xét